Các giai đoạn chơi bóng (phases of play). Chỉ số này được chia làm hai trạng thái chính là khi đội có bóng (in possession) và khi không có bóng (out of possession). Mỗi trạng thái lại gồm nhiều giai đoạn nhỏ, chẳng hạn có bóng gồm triển khai bóng (build-up), kéo bóng (progression), bóng ở trong 1/3 sân cuối (final third) hay phản công (counter-attack). Không bóng gồm khối cao gây áp lực (high press), khối trung (mid block), khối thấp (low block) hay tranh bóng nhanh ngay khi mất (counter-press).
Việc phân tích tỷ lệ của các giai đoạn chơi bóng cho thấy được lối chơi của từng đội, cũng như cục diện trận đấu. Chẳng hạn Australia dành nhiều thời gian giữ bóng ở 1/3 sân cuối hơn, đồng nghĩa Đan Mạch giữ đội hình ở khối thấp lâu hơn. Nói cách khác, Australia chơi lấn sân hơn còn Đan Mạch phải lùi sâu phòng thủ hơn.
Triển khai bóng lại gồm hai giai đoạn nhỏ, là triển khai bị chống đối (opposed) và không chống đối (unopposed). Điểm khác biệt ở hai giai đoạn này là hành động của đối thủ, rằng liệu họ có dâng khối cao để tranh bóng không. Đội bóng triển khai bị chống đối nhiều chứng tỏ đối thủ cũng thường dâng cao gây áp lực.
Các khối đội hình thường được chia làm ba phần của sân theo chiều dài. Đội dùng khối cao sẽ tranh bóng ngay từ 1/3 sân cuối, khối trung sẽ bắt đầu tranh bóng từ 1/3 sân giữa, còn khối thấp sẽ chỉ bắt đầu tranh bóng từ 1/3 sân đầu. Nếu coi sân bóng chuẩn dài 105 m, 1/3 sân cuối là khoảng sân từ biên ngang bên đối thủ đến 35 m đầu tiên.